quốc gia ở Trung Mỹ
Châu Mỹ > Nicaragua

Nicaragua
Vị trí
Quốc kỳ
Thông tin cơ bản
Thủ đô Managua
Chính phủ Republic
Tiền tệ gold cordoba (NIO)
Diện tích total: 129,494
Tôn giáo Công giáo La Mã 85%, Protestant
Hệ thống điện 120V/60Hz (USA plug)
Mã số điện thoại +505
Internet TLD .ni
Múi giờ UTC-6

Nicaragua là một quốc gia dân chủ cộng hoà tại Trung Mỹ.

Tổng quan

sửa

Đây là nước lớn nhất ở Trung Mỹ, nhưng cũng có mật độ dân cư thấp nhất với số nhân khẩu chỉ tương đương các nước láng giềng nhỏ hơn. Nước này giáp với Honduras ở phía bắc, Costa Rica ở phía nam. Bờ biển phía tây trên bờ Thái Bình Dương, còn phía đông là Biển Caribe. Tên nước xuất phát từ chữ Nicarao, tên của bộ lạc sử dụng ngôn ngữ Nahuatl từng sống trên bờ biển Lago de Nicaragua trước khi Cuộc chinh phục Châu Mỹ của Tây Ban Nha diễn ra, và từ tiếng Tây Ban Nha Agua, nghĩa là nước, vì sự hiện diện của hai hồ lớn Lago de Nicaragua và Lago de Managua trong vùng.

Thời chinh phục của Tây Ban Nha, Nicaragua là tên của một dải đất hẹp giữa Hồ Nicaragua và Thái Bình Dương. Thủ lĩnh Nicarao là người đứng đầu vùng đất này khi những kẻ chinh phục đầu tiên đặt chân tới. Thuật ngữ sau này đã được công nhận, và mở rộng, để chỉ nhóm người sống tại vùng đó: người Nicaraos hay NiquIranos.

Bộ tộc Nicarao đã di cư tới vùng này theo lời khuyên của các vị chức sắc tôn giáo từ các vùng phía bắc sau khi Teotihuacán sụp đổ. Theo truyền thống, họ đi về phía nam cho tới khi gặp một cái hồ với hai ngọn núi lửa nổi trên mặt nước, và họ đã dừng lại khi tới Ometepe, hòn đảo núi lửa nước ngọt lớn nhất thế giới.

Lịch sử

sửa

Năm 1524, Kẻ chinh phục Francisco Hernández de Córdoba đã thành lập những khu định cư thường trực Tây Ban Nha đầu tiên, gồm hai thị trấn chính của Nicaragua: Granada tại Hồ Nicaragua và León phía đông Hồ Managua. Được coi như một thuộc địa của Tây Ban Nha bên trong vương quốc Guatemala trong thập niên 1520, Nicaragua đã trở thành một phần của Đế chế Mexico và sau này giành lại độc lập như một phần của Các tỉnh Trung Mỹ Thống nhất năm 1821 và sau đó như một nhà nước cộng hòa độc lập với quyền của riêng mình năm 1838. Mosquito Coast dựa trên Bluefields tại Đại Tây Dương được Đế quốc Anh tuyên bố là khu vực bảo hộ từ năm 1655 tới 1850; vùng này được giao lại cho Honduras năm 1859 và tiếp tục chuyển cho Nicaragua năm 1860, dù nó vẫn tiếp tục có quy chế tự trị cho tới năm 1894.

Giai đoạn chính trị đầu tiên sau khi giành độc lập của Nicaragua có đặc điểm ở sự đối đầu giữa tầng lớp lãnh đạo tự do tại León và tầng lớp lãnh đạo bảo thủ tại Granada. Sự đối đầu này đã dẫn tới cuộc nội chiến. Ban đầu được những người tự do mời tham gia cùng họ vào cuộc đấu tranh chống phe bảo thủ (1855), một nhà thám hiểm Mỹ tên là William Walker hầu như chưa kịp chiến đấu đã thu được thắng lợi cho phe tự do. Vì thế ông ta thấy rằng việc chiếm lấy cả đất nước cũng không khó khắn. Walker tự phong mình làm tổng thống năm 1856 với ý định thành lập một nhà nước nô lệ khác cho Hoa Kỳ. Sợ kế hoạch của ông ta sẽ còn mở rộng thêm, nhiều nước Trung Mỹ khác đã phối hợp lật đổ Walker khỏi Nicaragua năm 1857, mỉa mai thay với sự ủng hộ của nhà công nghiệp Hoa Kỳ Cornelius Vanderbilt, người trước đó đã trợ cấp cho hành động cướp nước Nicaragua của Walker. Walker bị hành quyết tại nước Honduras láng giềng ngày 12 tháng 9 năm 1860.[1] Tiếp sau đó là giai đoạn cầm quyền ba thập kỷ của phe bảo thủ.

Lợi dụng sự chia rẽ trong phe bảo thủ, José Santos Zelaya đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy đưa ông tới quyền lực năm 1893. Zelaya đã chấm dứt cuộc tranh cãi từ lâu với Anh Quốc về Atlantic Coast năm 1894, và tái nhập Mosquito Coast vào Nicaragua.

Nicaragua đã cung cấp hỗ trợ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và là nước đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Hiến chương Liên hiệp quốc.

Nicaragua từng nhiều lần bị can thiệp từ bên ngoài và những giai đoạn độc tài quân sự kéo dài, thời kỳ dài nhất là thời gian cầm quyền của gia đình Somoza, trong hầu như cả thế kỷ 20. Gia đình Somoza lên nắm quyền lực một phần nhờ hiệp ước năm 1927 do Mỹ đề xướng muốn thúc đẩy việc thành lập đội quân Phòng vệ Quốc gia thay thế cho các quân đội cá nhân nhỏ trước đó.Bản mẫu:Chú thích-needed Vị tướng duy nhất của Nicaragua từ chối ký hiệp ước này (el tratado del Espino Negro) là Augusto César Sandino ông đã bỏ lên vùng núi phía bắc Las Segovias, và chiến đấu chống lại các lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong năm năm.

Cuối cùng lực lượng lính thủy đánh bộ đạt được một thỏa thuận với phe du kích Sandinista. Lính thủy đánh bộ rút đi và Juan Bautista Sacasa nắm quyền kiểm soát toàn bộ đất nước. Một lực lượng Phòng vệ Quốc gia được thành lập và Anastasio Somoza Garcia, một người từng học tập tại Hoa Kỳ, trở thành người đứng đầu lực lượng mới này.

Địa lý

sửa

Chiếm diện tích 129.494 km² - tương đương diện tích Hy Lạp hay bang New York và rộng gấp 1.5 lần Bồ Đào Nha. Gần 8% lãnh thổ là các vườn quốc gia hay các khu dự trữ sinh quyển. Nước này giáp Costa Rica ở phía nam, Honduras ở phía bắc và Biển Caribe ở phía đông.

Nicaragua là một nước cộng hoà nhất thể. Vì các mục đích hành chính đất nước được chia thành 15 khu vực hành chính (departamentos) và hai vùng tự trị dựa theo mô hình Tây Ban Nha. Hai vùng tự trị là Región Autónoma del Atlántico Norte và Región Autónoma del Atlántico Sur, thường được gọi tắt là RAAN và RAAS theo thứ tự. Cho tới khi hai vùng này được trao quy chế tự trị năm 1985 đây từng là một khu vực hành chính duy nhất với tên gọi Zelaya.

Nicaragua có ba vùng địa lý khác biệt: Những vùng đất thấp Thái bình dương, Vùng núi Trung Bắc và Những vùng đất thấp Đại Tây Dương.

Khí hậu

sửa

Vùng

sửa
Capital Region
Nicaragua's most populous region, centered on the capital, Managua
Caribbean Nicaragua
Here travel is mostly done by boat and the rich mixture of Nicaraguan, Caribbean, Miskito Indian and Garifuna cultures makes this region seem like ankhác country.
Northern Highlands
Visit cigar factories and see how coffee is grown in a region filled with remnants of the revolution.
Northern Pacific Coast
At the collision point between two tectonic plates, this region has some of the highest volcanic activity on Earth and is also home to two national icons: rhum Flor de Caña and poet Rubén Darío.
Rio San Juan Region
An almost forgotten part of the country with its hidden treasures like the car free Solentiname Islands or El Castillo, and gateway to the pristine rainforest of the Indio Maiz reserve.
Southern Pacific Coast
A narrow stretch of land bordered by the Pacific Ocean and Lago Nicaragua. Surf remote spots along the coast, party in San Juan del Sur or ride a motorbike around iconic Isla de Ometepe.

Thành phố

sửa

Các điểm đến khác

sửa

Đến

sửa

Công dân của các quốc gia / vùng lãnh thổ sau đây có thể nhập Nicaragua không một visa: Andorra, Anguilla, Antigua và Barbuda, Úc, Áo, Bahamas, Bahrain, Barbados, Bỉ, Belize, Brazil, Brunei, Bulgaria, Costa Rica, Croatia, Síp, Đan Mạch, Estonia, Eswatini, Quần đảo Falkland, Phần Lan, Pháp, Đức, Gibraltar, Hy Lạp, Hồng Kông, Hungary, Iceland, Ai-len, Israel, Ý, Nhật Bản, Kuwait, Latvia, Litva, Liechtenstein, Luxembourg, Macao, Macedonia, Madagascar, Malaysia, Malta, Quần đảo Marshall, Mexico, Monaco, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Paraguay, Panama, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Qatar, Saint Kitts và Nevis, Thánh Lucia, Saint Vincent và Grenadines, San Marino, Singapore, Slovakia, Quần đảo Solomon, Nam Phi, Nam Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Saint Helena, Ascension và Tristan da Cunha, Thụy Điển, Slovenia, Thụy Sĩ, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Trinidad và Tobago, Tuvalu, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Vanuatu, các Vatican (Tòa Thánh) và Venezuela.

Khách du lịch thuộc quốc tịch khác có thể có được một Thẻ du lịch với phí 10 đô la Mỹ giá trị trong 1 tháng đến 3 tháng (tùy thuộc vào quyền công dân - Canada và Hoa Kỳ được phép 90 ngày) khi đến nơi, cung cấp một hộ chiếu hợp lệ với ít nhất sáu tháng để chạy. Ngoài ra còn có một US $ 32 thuế khởi hành được bao gồm trong giá vé máy bay với hãng hàng không lớn (Mỹ, COPA và taca chắc chắn). Thẻ du lịch có giá trị trong 4 CA các nước khác, El Salvador, Guatemala, và Honduras, mặc dù đôi khi đòi hỏi phải có một cuộc thảo luận với các quan chức nhập cư mà phù này có hiệu lực, kể từ khi họ là khá bắt buộc phải bán thẻ du lịch nhiều hơn.

Bằng đường hàng không

sửa

Bằng tàu hỏa

sửa

Bằng ô-tô

sửa

Bằng buýt

sửa

Bằng tàu thuyền

sửa

Đi lại

sửa

Ngôn ngữ

sửa

90% dân cư sử dụng tiếng Tây Ban Nha; người Nicaragua nói thứ tiếng Tây Ban Nha Iberoamerica với một số điểm tương đồng với tiếng Tây Ban Nha El Salvador, Guatemala và Honduras—về cấu trúc sử dụng "vos" thay cho "tu" cùng với sự kết hợp "vos". Dân cư da đen vùng bờ biển phía đông dùng tiếng Anh như ngôn ngữ mẹ đẻ. Nhiều dân tộc bản xứ ở phía đông vẫn sử dụng ngôn ngữ riêng của mình, các ngôn ngữ chính trong số này gồm Miskito, Sumo, và nhóm bản xứ Rama. Ngôn ngữ Ký hiệu Nicaragua thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà ngôn ngữ học.

Mua sắm

sửa

Chi phí

sửa

Thức ăn

sửa

Với diện tích 130,373 km2, Nicaragua là đất nước lớn nhất vùng Trung Mỹ. Nằm trong vùng nhiệt đới, thiên nhiên Nicaragua vô cùng phong phú và đó cũng là một trong những yếu tố tạo nên nền ẩm thực có hương vị rất riêng của đất nước này.

Từ xa xưa, thành phần chính của thức ăn Nicaragua đã là bắp. Thừa hưởng cách chế biến thức ăn từ những bộ lạc cổ sống trên vùng đất này, người dân Nicaragua sử dụng bắp rộng rãi trong mọi món ăn, từ các loại soup cho đến món thịt. Điều này giải thích sự tương đồng giữa thức ăn Nicaragua và thức ăn của những nước khác ở Trung Mỹ và Mexico.

Nguyên liệu bắp có thể dùng trong nhiều loại nước uống như Chicha (trái cây và bắp lên men nhẹ, độ cồn chỉ khoảng 1-3%) hay Pinol (bắp xay cùng vài loại hạt, sau đó dùng pha nước). Bắp còn dùng làm những món ăn chính như Nacatamal (món bánh giống bánh tét của Việt Nam, cũng có bột, gạo, các loại thịt, bắp, lá thơm cũng như các gia vị khác, gói bằng lá chuối rồi hấp chín), Indio Viejo (món soup hầm nhừ với bắp, khoai, cà chua và hành tây cùng với thịt và gia vị đủ loại sau đó pha thêm bơ và nước), và Sopa de Albondiga (soup thịt băm viên, thêm vào nhiều rau củ, các loại đậu, bắp và gia vị thơm, có tác dụng chống cảm cúm rất tốt). Thậm chí bắp có mặt trong cả các món ăn vặt như Atolillo (món tráng miệng làm từ bắp non xay, bột bắp, sữa, quế và đường) và Perrereque (bánh mì làm từ bắp).

Ngoài ra, người Nicaragua còn sử dụng những loại thịt mà người phương Tây sẽ thấy khó ăn như đuôi, vú, ruột, óc... của bò; hay da, móng và huyết heo. Ẩm thực Nicaragua còn khai thác cả những loại đặc sản bị các nhà khoa học khuyến cáo vì sự tuyệt chủng của giống loài đó như trứng rùa, các loại kỳ nhông và trăn Nam Mỹ.

Nicaragua có rất nhiều món ăn truyền thống. Mỗi vùng miền đều có những món đặc trưng riêng, góp phần làm nên diện mạo ẩm thực của Nicaragua

Đồ uống

sửa

Chỗ nghỉ

sửa

Học

sửa

An toàn

sửa

Y tế

sửa

Tôn trọng

sửa

Liên hệ

sửa
Bài viết này còn ở dạng sơ khai nên cần bổ sung nhiều thông tin hơn. Nó có thể không có nhiều thông tin hữu ích. Hãy mạnh dạn sửa đổi và phát triển bài viết!