Vị trí | |
Quốc kỳ | |
Thông tin cơ bản | |
Thủ đô | Ottawa |
Chính phủ | Dân chủ nghị viện liên bang và quân chủ lập hiến |
Tiền tệ | Đô la Canada (CAD) |
Diện tích | 9.976.140 km2 |
Dân số | 33.647.989 (ước tính tháng 5/2009) |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh 59,3% (chính thức), tiếng Pháp 23,2% (chính thức), khác 17.5% |
Tôn giáo | Công giáo Rôma 43,6%, Tin lành 29,2%, No religious affiliation 16.5%, Other 10.7% |
Mã số điện thoại | +1 |
Internet TLD | .ca |
Canada là một quốc gia Bắc Mỹ, phía bắc giáp Bắc Cực và tiểu bang Alaska, phía nam giáp Hoa Kỳ. Đây là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, sau Liên bang Nga, và nằm ở cực bắc của Bắc Mỹ. Lãnh thổ Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông sang Thái Bình Dương ở phía tây, và giáp Bắc Băng Dương ở phía bắc. Về phía nam, Canada giáp với Hoa Kỳ bằng một biên giới không bảo vệ dài nhất thế giới. phía tây bắc của Canada giáp với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ. đông bắc của Canada có đảo Greenland (thuộc Đan Mạch). Ở bờ biển phía đông có quần đảo Saint-Pierre và Miquelon (thuộc Pháp). Biên giới chung của Canada với Hoa Kỳ về phía nam và phía tây bắc là đường biên giới dài nhất thế giới.
Tổng quan
sửaCanada chiếm phần lớn phía bắc của Bắc Mỹ, chia sẻ đường biên giới với Hoa Kỳ về phía nam và tiểu bang Alaska của Mỹ ở phía tây bắc, trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông sang Thái Bình Dương về phía tây; đến phía bắc là Bắc Băng Dương. Nếu tính tổng diện tích (bao gồm cả diện tích mặt nước), Canada là nước lớn thứ hai thế giới, sau Nga. Theo diện tích đất (diện tích đất là tổng diện tích trừ đi diện tích hồ và sông) thì Canada đứng thứ thứ tư.
Canada cũng là nơi có hoạt động địa chất phức tạp, với nhiều trận động đất và các ngọn núi lửa có khả năng hoạt động. Vụ phun trào núi lửa Tseax Cone năm 1775 đã gây ra tột tai họa thảm khóc, làm chết 2.000 người Nisga'a và phá hủy ngôi làng của họ tại thung lũng sông NASS ở miền bắc British Columbia, vụ phun trào đã tạo ra một dòng chảy (14,0 dặm) dung nham dài 22,5 km, và theo truyền thuyết của [người Nisga'a, chính vụ phun trào núi lửa này đã làm chặn dòng chảy của sông NASS.
Lịch sử
sửaThời tiền sử
sửaTheo phán đoán của các nhà sử học và khảo cổ học, người thổ dân Canada (Indian) là các tộc người du mục đến từ khu vực Ấn Độ-Tây Tạng-Trung Quốc. Khoảng 10.000 đến 12.000 năm TCN, những người này đã đến châu Mỹ. Vì những lý do như bị kẻ thù đuổi, săn bắt sinh vật, hay tìm nơi ở mới, họ đã tình cờ băng qua lớp băng đá trên eo biển Bering để đến Alaska. Từ đây, họ tiếp tục di cư đến khắp châu lục Bắc Mỹ, biển Caribbean và Nam Mỹ, phát triển ra thành hàng chục ngàn bộ tộc mới.
Còn người Inuit được cho là xuất sứ từ khu vực Siberia, Nga. Họ cũng di cư qua eo Bering, nhưng lại định cư hoàn toàn ở miền Bắc Canada, từ vĩ tuyến 60° trở lên.
Khoảng năm 1000, một vài người Viking ở Bắc Âu đã đặt chân đến Newfoundland. Nhưng họ không định cư mà trở về nước.
Thời thực dân Châu Âu
sửaKhoảng cuối thế kỷ 15, một vài nhà thám hiểm châu Âu đã theo chân Christopher Columbus thám hiểm châu Mỹ.
Năm 1497, John Cabot khám phá Newfoundland và tuyên bố thuộc về vùng đất đó thuộc về Anh. Năm 1534, Jacques Cartier tìm ra khu vực sông Saint-Laurent cho Pháp. Năm 1603, Samuel de Champlain đã thành lập khu dân cư đầu tiên, thành Québec trên bờ sông Saint-Laurent và trở thành thống đốc Tân Pháp (Nouvelle-France) tại Bắc Mỹ.
Các công ty Anh và Pháp đến Bắc Mỹ trao đổi, buôn bán với dân bản địa, mặt hàng quan trọng nhất là lông thú. Từ đó các cuộc tranh chấp đất đai và giành quyền kiểm sát giao thương diễn ra liên tục. Bộ tộc Huron thân với Pháp bị tiêu diệt bởi bộ tộc Iroquois thân với Anh. Thuộc địa Pháp liền bị đẩy vào thế nguy hiểm. Vua Pháp nhanh chóng ra nhiều chính sách để thu hút thêm dân nhập cư vào Tân Pháp. Năm 1760, dân số Tân Pháp đã tăng lên 70.000.
Vào năm 1756, cuộc Chiến tranh Bảy năm giữa hai đế quốc thực dân Anh và Pháp ở châu Mỹ nổ ra. Vào năm 1759, tướng Anh là James Wolfe xua quân tấn công thành Québec của tướng Pháp là Hầu tước Louis Joseph de Montcalm-Gozon và chiến thắng. Thành phố-pháo đài rơi vào tay quân Anh, còn Montcalm thì bị thương nặng. Vào năm 1760, quân Anh tiến đánh, chiếm được thành Montréal của quân Pháp. Vào năm 1763, Anh và Pháp ký hòa ước. Pháp nhường toàn bộ thuộc địa Bắc Mỹ cho Anh.
Thời thực dân Anh
sửaTân Pháp sau khi thuộc về Anh được đổi tên thành Quebec. Người dân (nói tiếng Pháp) và chính quyền (tiếng Anh) chống đối lẫn nhau. Thống đốc James Murray đã giải quyết bằng cách bỏ bớt các luật lệ của người Anh và ban cho người nói tiếng Pháp nhiều quyền hơn.
1774, Guy Carleton được vua Anh giao quyền thống đốc và đã ra Đạo luật Quebec (Quebec Act). Theo đó, dân Pháp chiếm đa số sẽ có quyền hơn trong chính phủ. Điều này gây bất mãn cho nhiều người gốc Anh.
Năm 1776, Hoa Kỳ giành được độc lập, những người trung thành với vua Anh nhưng không muốn chống đối đã di cư đến Québec, New Brunswick và Nova Scotia. Dân số Anh tăng lên đáng kể ở đây, và Đạo luật Hiến pháp ra đời. Nó chia đôi Québec làm hai tỉnh: Thượng Canada (Upper Canada, là Ontario ngày nay) của dân nói tiếng Anh và Hạ Canada (Lower Canada, là Quebec ngày nay) của dân nói tiếng Pháp.
Năm 1838, cuộc nổi loạn giữa dân Anh và Pháp ở hai tỉnh Thượng và Hạ diễn ra. Hai dân tộc đánh nhau loạn xạ giữa các đường phố, số người chết rất cao. Điều này khiến vua Anh cử Lord Durham sang Canada. Durham đã ra Đạo luật Hợp nhất (Act of Union). Đạo luật này nhập hai tỉnh Canada thành một. Durham mong rằng như vậy có thể làm cho dân Pháp bị đồng hóa và sẽ dễ dàng cai trị hơn. Dân nói tiếng Pháp chống đối chính phủ và tìm nhiều cách để duy trì văn hóa Pháp.
Năm 1858, Anh mở ra thêm thuộc địa British Columbia ở bờ biển Thái Bình Dương, nằm ở tây bắc của Bắc Mỹ.
Thành lập liên bang
sửaNgày 1 tháng 7 năm 1867, John Alexander Macdonald đã khánh thành Nước Tự trị Canada (Dominion of Canada) theo Đạo luật Anh Bắc Mỹ (British North America Act). Canada lúc bấy giờ gồm bốn tỉnh: Ontario, Québec, Nova Scotia và New Brunswick.
1870, Manitoba gia nhập Canada. 1871, British Columbia gia nhập. 1873, Prince Edward Island gia nhập. 1905, Alberta và Saskatchewan gia nhập. 1949 Newfoundland gia nhập.
Do Anh vẫn giữ quyền kiểm soát các vấn đề đối ngoại của Canada theo Đạo luật Anh Bắc Mỹ, sự kiện Anh tuyên chiến với Đức vào năm 1914 đã lôi kéo Canada vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Quân tình nguyện được đưa đến Mặt trận phía Tây về sau đã trở thành một phần thuộc Quân đoàn Canada. Quân đoàn đã giành chiến thắng trong trận cao điểm Vimy năm 1917 và đóng vai trò quan trọng trong những trận đánh lớn khác trong cuộc chiến.[19] Ước tính có 625.000 người Canada phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, trong đó 60.000 người chết và 173.000 người khác bị thương. [20]
1982, Đạo luật Canada (Canada Act) được thông qua. Québec là tỉnh bang duy nhất không đồng ý thông qua. Đàm phán Hồ Meech (Meech Lake Accord) giữa thủ tướng Brian Mulroney và thủ hiến Québec Robert Bourassa nhằm thuyết phục tỉnh này ký vào đạo luật thất bại.
Địa lý
sửaPhần lớn diện tích của quốc gia này không có người định cư do khí hậu và địa hình. Các thành phố và khu vực dân cư tập trung ở phía nam. Phần lớn khu vực Bắc cực của Canada được bao phủ bởi băng và lớp băng vĩnh cửu. Canada cũng có bờ biển dài nhất thế giới: 202.080 km (125.570 dặm).
Với mật độ dân số, 3,3 người trên mỗi dặm vuông (8.5/sq mi), Canada là một trong những quốc gia có mật độ dân số thấp nhất trên thế giới. Nơi có mật độ dân cư cao nhất là Thành phố Québec – Windsor Corridor, (nằm ở phía Nam Quebec và Nam Ontario) dọc Great Lakes và sông Saint Lawrence ở phía đông nam.
Canada có một đường bờ biển rộng lớn ở phía bắc, đông và tây, và kể từ thời kỳ băng hà cuối cùng nó nơi đây đã bao gồm tám khu vực rừng khác biệt, bao gồm rừng taiga rộng lớn ở Shield Canada. Sự phong phú và đa dạng về địa lý, sinh thái, thảm thực vật và địa hình của Canada đã tạo cho quốc gia này một sự đa dạng về khí hậu.Với diện tích rộng lớn, Canada có nhiều hồ hơn bất kỳ quốc gia nào khác, số hồ này chứa một lượng nước ngọt lớn của thế giới. Ngoài ra còn có các sông băng nước ngọt ở Rockies Canada và dãy núi Coast.
Khí hậu
sửaNhiệt độ trung bình mùa đông và mùa hè trên khắp Canada khác nhau tùy theo vị trí. Mùa đông có thể rất khắc nghiệt ở nhiều vùng của đất nước, đặc biệt là tại các tỉnh nội địa và các tỉnh bình nguyên, là những nơi có khí hậu lục địa, nhiệt độ trung bình hàng ngày là gần -15 °C (5 °F), nhưng có thể giảm xuống dưới -40 °C (- 40 °F) với những cơn gió lạnh khắc nghiệt. Trong các khu vực không có bờ biển, tuyết có thể bao phủ mặt đất gần sáu tháng trong năm (nhiều hơn ở phía bắc). Khu vực ven biển British Columbia có khí hậu ôn đới], với một mùa đông mát mẻ và có mưa. Trên bờ biển phía đông và phía tây, nhiệt độ trung bình cao thường khoảng 20 °C (70 °F), trong khi giữa các vùng bờ biển, nhiệt độ trung bình cao mùa hè khoảng 25-30 °C (77-86 °F), với khí nóng có thể lên đến trên 40 °C (104 °F) tại một số khu vực nội địa.
Vùng
sửaCờ | Tỉnh bang | Thủ phủ | Múi giờ (UTC) | Vùng |
---|---|---|---|---|
British Columbia | Victoria | -8 (Pacific), -7 (Mountain) | Western, Pacific | |
Alberta | Edmonton | -7 (Mountain) | Western, Prairies | |
Saskatchewan | Regina | -7 (Mountain), -6 (Central) | ||
Manitoba | Winnipeg | -6 (Central) | ||
Ontario | Toronto | -6 (Central), -5 (Eastern) |
Central, Eastern | |
Quebec | Thành phố Québec | -5 (Eastern) -4 (Magdalen Islands) | ||
New Brunswick | Fredericton | -4 (Atlantic) | Atlantic, Maritimes | |
Nova Scotia | Halifax | |||
Đảo hoàng tử Edward | Charlottetown | |||
Newfoundland và Labrador | St. John's | -4 (Atlantic), -3.5 (Newfoundland) | Atlantic | |
Cờ | Lãnh thổ | Thủ phủ | Múi giờ (UTC) | Vùng |
Yukon | Whitehorse | -8 | Northern hay Arctic | |
Lãnh thổ Tây Bắc | Yellowknife | -7 | ||
Nunavut | Iqaluit | -7, -6, -5, |
Thành phố
sửa- Ottawa, thủ đô.
- Toronto, thành phố lớn nhất, trung tâm kinh tế của Canada.
- Montréal, thành phố lớn nhất tỉnh Québec.
- Vancouver, thành phố lớn nhất phía tây.
- Thành phố Quebec, thủ phủ tỉnh Québec.
- Whitehorse, thành phố lớn điểm giữa xa lộ Alaska.
- Winnipeg, thành phố gần trung tâm lục địa và giàu văn hoá Canada-Pháp, lưu giữ được nhiều toà nhà lịch sử
- Halifax
- Calgary
Các điểm đến khác
sửaĐến
sửaVisa
sửaCông dân của các nước sau không cần visa nhập cảnh Canada trong thời gian lưu trú (nói chung) đến sáu tháng, cung cấp không có công việc được thực hiện và các du khách mang hộ chiếu hợp lệ trong sáu tháng sau ngày dự định của họ khởi hành:
Andorra, Anguilla, Antigua và Barbuda, Úc, Áo, Bahamas, Barbados, Bỉ, Bermuda, Botswana, British Virgin Islands, Brunei, Quần đảo Cayman, Croatia, Síp, Đan Mạch, Estonia, Eswatini, Quần đảo Falkland, Phần Lan, Pháp, Đức, Gibraltar, Hy Lạp, Thánh, Hồng Kông (BNO Hộ chiếu hoặc SAR Hộ chiếu), Hungary, Iceland, Ai-len, Israel (chỉ mang hộ chiếu quốc gia), Ý, Nhật Bản, Latvia, Lithuania (sinh trắc học chỉ có hộ chiếu), Liechtenstein, Luxembourg, Malta, Monaco, Montserrat, Namibia, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Papua New Guinea, Pitcairn Islands, Ba Lan (sinh trắc học chỉ có hộ chiếu), Bồ Đào Nha, Saint Kitts và Nevis, Thánh Lucia, Saint Vincent và Grenadines, San Marino, Singapore, Slovakia, Quần đảo Solomon, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, St Helena, Thụy Điển, Slovenia, Thụy Sĩ, Đài Loan (phải có hộ chiếu phổ thông bao gồm số nhận dạng cá nhân), Thổ Nhĩ Kỳ và các đảo Caicos, Vương quốc Anh (bao gồm cả công dân Anh (ở hải ngoại) Công dân mà lại chấp nhận nhập cảnh lại vào Vương quốc Anh), Hoa Kỳ và Tây Samoa.
Xin lưu ý rằng công dân của các nước nêu trên, nên không cần xin thị thực có thể phải cần thêm visa/giấy phép nếu họ có hồ sơ hình sự và do đó được coi là "tội phạm không thể chấp nhận nhập cảnh Canada ". Miễn visa cũng được áp dụng cho các cá nhân không có quốc tịch được chỉ định trên nếu họ đang sở hữu một thẻ xanh của Mỹ hoặc có thể cung cấp bằng chứng khác về thường trú tại Hoa Kỳ. Người không cần thị thực và đang nhập cảnh cho bất kỳ lý do khác ngoài du lịch phải có một thư mời từ các cá nhân, doanh nghiệp, hoặc tổ chức mà họ đang đến thăm. (Xem thông tin về thư mời và những thông tin họ cần phải có).
Tất cả những người khác sẽ được yêu cầu để có được một visa tạm trú để nhập cảnh. Điều này có thể được thực hiện tại Văn phòng visa Canada gần người nộp đơn xin visa nhất. Người nộp đơn xin visa được yêu cầu phải nộp kèm theo đơn xin visa của họ : All others will be required to obtain a Temporary Resident Visa to enter the country. This can be done at the applicants' nearest Canadian Visa Office. Applicants are required to submit, as part of their application :
- Một giấy thông hành hợp lệ (ví dụ như hộ chiếu)
- Hai hình có kích cỡ và màu cho hộ chiếu cho tất cả những người nộp đơn
- Lệ phí xin visa (Lệ phí cho mỗi người là $75 cho một thị thực nhập cảnh một lầnt, $150 cho một thị thực nhập cảnh nhiều lần hoặc $ 400 cho một visa gia đình (nhập cảnh một lần hay nhiều lần).
- Xác nhận đặt phòng (đối với khách du lịch) hoặc thư mời (cho tất cả mọi người khác).
- Chứng minh rằng bạn có đủ tiền chi trả cho chuyến thăm của bạn đến Canada. Số tiền có thể khác nhau, tùy theo hoàn cảnh cho chuyến thăm của bạn, bao lâu bạn sẽ ở lại và xem bạn sẽ ở trong một khách sạn, hoặc với bạn bè hoặc người thân. Bạn có thể nhận được thêm thông tin từ văn phòng thị thực.
- Các tài liệu khác theo yêu cầu. Những tài liệu này có thể được chứng minh thư, bằng chứng về việc làm, hoặc một hành trình đề xuất. Kiểm tra trang web của văn phòng thị thực chịu trách nhiệm về quốc gia hoặc khu vực nơi bạn sinh sống để biết thêm thông tin.
Bằng đường hàng không
sửaBạn có thể đến Canada bằng đường hàng không, có thể vào Montreal, Ottawa, Toronto, Calgary hay Vancouver (năm thành phố lớn nhất, từ Đông sang Tây). Nhiều thành phố khác cũng có sân bay quốc tế. Air Canada và WestJet là hãng hàng không quốc gia duy nhất của Canada, có các tuyến bay trong nội địa Canada và các điểm đến quốc tế (Lưu ý rằng một số hãng hàng không nội địa khu vực cũng tồn tại cũng như các hãng hàng không thuê chuyến chỉ phục vụ các điểm đến quốc tế).
Bằng tàu hỏa
sửaBằng ô-tô
sửaBằng buýt
sửaBằng tàu thuyền
sửaĐi lại
sửaNgôn ngữ
sửaHai ngôn ngữ chính thức của Liên bang Canada là tiếng Anh và tiếng Pháp. Gần 60% dân Canada có tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh, 22% là tiếng Pháp. Đại đa số người nói tiếng Pháp sống tại tỉnh bang Québec, sau đó là các tỉnh bang Ontario, New Brunswick và Manitoba. Một số ngôn ngữ của các thổ dân cũng được xem là ngôn ngữ chính thức tại các lãnh thổ tự trị, đặc biệt là tiếng Inuktitut. Rất nhiều thứ tiếng của các thổ dân đã bị mai một hay đang đi đến tình trạng đó. Những tiếng khác được nhiều người nói là: tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tây Ban Nha.