Vị trí | |
Quốc kỳ | |
Thông tin cơ bản | |
Thủ đô | Conakry |
Chính phủ | Cộng hoà |
Tiền tệ | Guinean franc (GNF) |
Diện tích | total: 245.857 km2 water: 0 km2 land: 245,857 km2 |
Dân số | 9.690,.222 (ước tính tháng 7/2006) |
Ngôn ngữ | Tiếng Pháp (chính thức), each ethnic group has its own language |
Tôn giáo | Hồi giáo 85%, Thiên Chúa giáo 8%, các tín ngưỡng bản địa 7% |
Mã số điện thoại | +224 |
Internet TLD | .gn |
Múi giờ | UTC |
Guinée (tiếng Việt: Cộng hòa Ghi-nê), là một đất nước nằm ở miền Tây Phi.
Tổng quan
sửaTrước đây quốc gia này được biết với cái tên Guinée thuộc Pháp (Guinée française), đôi khi từ Guinée - Conakry dùng để chỉ quốc gia này để phân biệt với đất nước láng giềng Guinea-Bissau. Conakry là thủ đô, nơi đặt các cơ quan chính phủ quốc gia, và là thành phố lớn nhất nước.
Diện tích Guinée vào khoảng 246.000 kilomet vuông (94.981 dặm vuông). Hình dạng lưỡi liềm của quốc gia này bắt đầu từ bờ biển phía tây giáp Đại Tây Dương cong về phía đông và nam. Guinée biên giới với Guiné-Bissau, Senegal và Mali về phía bắc, phía nam giáp Bờ Biển Ngà, Liberia và Sierra Leone. Con sông Niger bắt nguồn từ Guinée và chảy về hướng đông.
Dân số 10.000.000 người của Guinée thuộc về hai mươi bốn nhóm dân tộc. Các nhóm sắc tộc chiếm đa số là Fula, Mandinka, và Susu.
Lịch sử
sửaThế kỉ 12, vùng thượng Guinée là phần đất thuộc đế quốc Mali. Sau khi người Bồ Đào Nha đặt chân đến vùng bờ biển này (từ năm 1461), chế độ buôn bán nô lệ bắt đầu diễn ra và kéo dài đến năm 1850. Guinée trở thành thuộc địa của Pháp từ năm 1893, bị sáp nhập vào lãnh thổ Tây Phi thuộc Pháp năm 1895.
Nhân dân Guinée dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Samori Touré đã chiến đấu chống lại thực dân Pháp trong nhiều năm. Năm 1898, thủ lĩnh Samori Touré bị bắt và tới năm 1905 Pháp chiếm hoàn toàn Guinée và đặt Guinée trong khối Tây Phi thuộc Pháp. Sau khi Pháp chiếm Guinée, nhân dân Guinée đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh chống ách thống trị của Pháp. Nổi bật nhất là các cuộc khởi nghĩa của nhân dân vùng Fouta.
Năm 1947, một nhóm người tiến bộ do Sékou Touré lãnh đạo thành lập Đảng Dân chủ Guinée(PDG). Đảng Dân chủ Guinée nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị quan trọng chống lại chế độ thực dân Pháp. Nhằm giữ thuộc địa sau thất bại ở Đông Dương, chính quyền Pháp chủ trương thành lập "Cộng đồng Pháp" ở châu Phi. Ngày 28 tháng 9 năm 1958, dưới sự lãnh đạo của Đảng Dân chủ Guinée, nhân dân Guinée đã bỏ phiếu chống lại kế hoạch lập Cộng đồng Pháp trong cuộc trưng cầu dân ý về tương lai của Guinée do chính quyền Pháp tổ chức.
Ngày 2 tháng 10 năm 1958, Guinée tuyên bố độc lập và thành lập nước Cộng hòa Guinée do Sékou Touré làm Tổng thống. Guinée là nước đầu tiên của thuộc địa Tây Phi thuộc Pháp giành độc lập năm 1958. Chính quyền của Tổng thống Sékou Touré theo đuổi chính sách độc lập dân tộc, ủng hộ các phong trào giải phóng châu Phi.
Từ năm 1978, Cộng hoà Guinée đổi tên thành Cộng hoà Nhân dân Cách mạng Guinée. Năm 1982, Guinée bình thường hoá quan hệ với Pháp, bắt đầu hợp tác kinh tế và dần dần có quan hệ gắn bó với Mỹ và phương Tây. Tháng 4 năm 1984, sau khi Tổng thống Sékou Touré chết, lực lượng quân sự do Đại tá Lansana Conté đứng đầu tiến hành đảo chính và lên cầm quyền, đổi tên nước thành Cộng hoà Guinée. Tổng thống Lansana Conté đứng đầu đã tuyên bố thực hiện đường lối phát triển đát nước theo hướng tự do hoá kinh tế (1985), đa dạng hoá quan hệ với các nước, xây dựng hiến pháp mới theo chế độ đa đảng (1990). Tổng thống Lasana Conté tái đắc cử trong cuộc bầu cử Tổng thống các năm 1993, 1998 và 2003.
Guinée và nước láng giềng Liberia vẫn tiếp tục trong tình trạng khó khăn. Cuộc nội chiến ở Liberia kéo dài trong thập niên 90, cuộc chiến ở đây đã lan sang biên giới Guinée, những cuộc đụng độ ở biên giới vẫn tiếp tục diễn ra sau khi nội chiến đã tạm lắng xuống. Guinée ủng hộ việc chống lại nhà lãnh đạo đối lập Charler Taylor trong cuộc nội chiến ở Liberia, cho nên mối quan hệ giữa Tổng thống Conté với Taylor không mấy tốt đẹp sau khi Taylor trở thành Tổng thống Liberia năm 1997.
Từ tháng 9 năm 2000, cuộc chiến tại ngã ba biên giới Guinée, Liberia và Sierra Leone ngày càng gia tăng. Quân đội Guinée phải chiến đấu chống lại lực lượng nhiều thành phần phe nhóm trong nhóm nổi dậy Guinée và Liberia. Do cơ sở hạ tầng thiếu, nền kinh tế yếu kém, gần 300.000 người tị nạn do cuộc nội chiến ở Sierra Leone đã tràn sang Guinée.
Năm 2006 và đầu năm 2007, tình hình kinh tế chính trị Guinée bị ảnh hưởng nghiêm trọng do các cuộc tổng đình công của các nghiệp đoàn phản đối chính phủ quản lý yếu kém, đòi Tổng thống Lansana Conté phải từ chức (do vấn đề sức khỏe) và bổ nhiệm một vị Thủ tướng.
Ngày 22 tháng 12 năm 2008, Tổng thống Lansana Conté qua đời. Một nhóm lực lượng quân đội đã tiến hành đảo chính giành chính quyền. Lãnh đạo nhóm đảo chính là Đại tá Moussa Dadis Camara tuyên bố là Tổng thống mới của Guinée và thành lập chính phủ mới.
Ngày 15 tháng 2 năm 2010, chính phủ chuyển tiếp gồm 34 thành viên được thành trong đó chính trị gia đối lập kỳ cựu Jean-Marie Dore giữ chức Thủ tướng. Ghi-nê dự kiến sẽ tổ chức bầu cử tổng thống vào ngày 27 tháng 6 năm 2010 nhằm thay thế chính quyền quân sự hiện nay.
Địa lý
sửaGuinée nằm ở Tây Phi, bên bờ Đại Tây Dương có chung biên giới với Liberia, Guinea-Bissau, Senegal, Bờ Biển Ngà, Sierra Leone và Mali. Vùng đồng bằng ven biển tiếp giáp với khôi núi Fouta-Djalon. Vùng cao nguyên phía Đông phần lớn là các đồng cỏ nơi có thượng lưu sông Niger chảy qua; phía Đông Nam là các khối núi cao có các khu rừng rậm bao phủ.
Các khu vực
sửaGuinee Maritime (Conakry) Guinea duyên hải, nơi sinh sống của người Susu và thủ đô quốc gia |
Moyenne Guinee (Dalaba) cũng gọi là Fouta Djallon, phần lớn là đồi núi ở bên trong với một khí hậu khá mát và là nơi sinh sống của người Pular (Peuls) |
Haute Guinee (Kankan, Vườn quốc gia Thượng Niger) Khu vực cận Sahelia phần lớn giáp Mali, chia đôi bởi sông Niger và là nơi sinh sống của người Malinke |
Guinee Forestiere (Beyla, Khu bảo tồn thiên nhiên núi Nimba) Vùng đông nam giáp với Liberia và Bờ Biển Ngà, nơi sinh sống của người Toma, Kissi và các dân tộc khác mà còn lưu giữ các tín ngưỡng và lễ nghi rất cổ xưa |
Các thành phố
sửa- Conakry — thủ đô
- Kankan — thành phố lớn thứ nhì
- Beyla
- Kindia
- Forécariah
- Labé
- Boké / Kamsar
- Mamou
- Faranah
- Kissidougou
- N'zérékoré
- Lola
- Guéckédou
- Dalaba — một thị xã nhỏ thường được mệnh danh "Thuỵ Sĩ Guinea"
- Dabola
Các điểm đến khác
sửaĐến
sửaVisa
sửaYêu cầu thị thực phải được thực hiện tại Guinea đại sứ quán, và không có sẵn tại biên giới hoặc sân bay. Visa dài một tháng, nhập cảnh một lần có mức phí khoảng 65 USD. Visa dài ba tháng, nhập cảnh hai lần và là loại chỉ dành cho công dân của Hoa Kỳ.
Bằng đường hàng không
sửaAir France bay từ Paris, Pháp và SN Brussels từ Brussels, Bỉ. Air Ivoire bay đến Conakry thường xuyên từ đường Abidjan en đến Dakar, cũng như BELvue. Mong đợi để được hỏi về một "món quà" của an ninh sân bay.
Royal Air Maroc cung cấp các chuyến bay trực tiếp duy nhất từ Montreal đến châu Phi (Casablanca, với điểm dừng chân tại New York) và nhiều kết nối từ Casablanca đến Conakry (còn gọi là KRY) và các nơi khác.
Bằng tàu hỏa
sửaMặc dù đoàn tàu chở hàng vẫn chạy đường cũ giữa Conakry và Kankan, không có hành khách xe lửa vẫn còn hoạt động trong Guinea. Ga cũ ở trung tâm thành phố Conakry là giá trị một chuyến viếng thăm.
Bằng ô-tô
sửaTính đến mùa hè năm 2006 là không an toàn để vượt qua biên giới Guinea với Bờ Biển Ngà. Các nhóm nổi dậy có (MJP) đã lấy cớ trục xuất quân đội Pháp từ Bờ Biển Ngà.
Năm 2008 đi giữa Guinea và Liberia là an toàn, mặc dù tốn thời gian. Thuê một chiếc xe máy là lựa chọn tốt nhất.
Qua biên giới Guinea với Senegal là có thể nhưng rất khó chịu và đòi hỏi sự kiên nhẫn. Trong Guinea, con đường giữa Labe và Koundara được trải nhựa và rất thô. Mất khoảng 8 giờ cho toàn bộ hành trình chỉ với sự cố nhỏ. Có một số nơi hoàn hảo và rất rẻ để ở lại trong Koundara. Giữa Koundara và Diaoube (Senegal) là một cuộc hành trình tương tự.