Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Na Uy”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: Châu Âu → Châu Âu (9)
n clean up
Dòng 27:
Từ sau Thế chiến II, kinh tế Na Uy phát triển nhanh chóng, hai thập kỉ đầu chủ yếu nhờ vào hàng hải, từ đầu những năm 1970 chủ yếu dựa vào khai thác và chế biến lượng lớn dầu mỏ tại Biển Bắc và Biển Na Uy. Ngày nay, Na Uy được xếp hạng là nước thịnh vượng nhất thế giới với khối lượng dự trữ vốn trên đầu người cao nhất thế giới. Tháng 8 2009, Dự trữ quốc gia Na Uy tuyên bố họ sở hữu khoảng 1% chứng khoán toàn cầu. Hiện nay Na Uy là nước xuất khẩu dầu mỏ lớn thứ bảy và công nghiệp dầu khí đóng góp khoảng một phần tư cho tổng GDP. Sau khủng hoảng tài chính quốc tế 2007-2009, các chuyên gia ngân hàng đã coi đồng Krone Na Uy là một trong những đồng tiền vững chắc nhất thế giới.
===Lịch sử===
Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy con người đã có mặt tại Na Uy ngay từ Thiên niên kỷ thứ 10 trước Công Nguyên (12.000 năm trước). Nghiên cứu khảo cổ cho thấy họ hoặc tới từ những vùng phía nam (bắc [[Đức|Đức]])[cần dẫn nguồn], hay đông bắc (bắc Phần Lan hay Nga) [cần dẫn nguồn]. Từ đó họ định cư dọc bờ biển.
 
Ở thế kỷ thứ 9, dường như Na Uy gồm một số vương quốc nhỏ. Theo truyền thống, Harald Fairhair đã tập hợp các tiểu quốc nhỏ thành một vào năm 872 sau Công Nguyên sau Trận Hafrsfjord. Ông trở thành vị vua đầu tiên của nước Na Uy thống nhất.
 
Thời kỳ Viking (thế kỷ thứ 8 tới thế kỷ 11) là một trong những giai đoạn thống nhất và mở rộng. Người Na Uy đã lập các khu định cư tại Iceland, Quần đảo Faroe, Greenland và nhiều phần của [[Anh Quốc|Anh Quốc]] và Ireland và tìm cách định cư tại L'Anse aux Meadows ở Newfoundland, [[Canada|Canada]] ("Vinland" của sử thi của Erik Thorvaldsson). Người Na Uy đã thành lập các thành phố Limerick, Dublin, và Waterford của Ireland và thành lập các cộng đồng thương mại gần các khu định cư Celtic của Cork và Dublin[cần dẫn nguồn] sau này trở thành hai thành phố quan trọng nhất của Ireland. Sự lan tràn của Thiên chúa giáo ở Na Uy trong giai đoạn này phần lớn nhờ các vị vua truyền giáo Olav Tryggvasson (995–1000) và St. Olav (1015–1028), dù Haakon the Good là vị vua Thiên chúa giáo đầu tiên của Na Uy. Các truyền thống Norse đã dần thay thế trong các thế kỷ thứ 9 và thứ 10.
 
Năm 1349, nạn dịch Tử thần Đen đã giết hại khoảng 40% tới 50% dân số Na Uy, khiến nước này suy sụp cả về xã hội và kinh tế. Trong cuộc suy thoái này, có lẽ Triều đại Fairhair đã kết thúc năm 1387. Bề ngoài có vẻ chính trị hoàng gia ở thời điểm ấy đã dẫn tới nhiều hiệp đoàn cá nhân giữa các quốc gia Bắc Âu, cuối cùng dẫn tới việc ngôi vua của Na Uy, Đan Mạch, và Thuỵ Điển rơi vào tay Nữ hoàng Margrethe I của Đan Mạch khi nước này gia nhập Liên minh Kalmar với Đan Mạch và Thuỵ Điển. Dù Thuỵ Điển cuối cùng đã rút lui khỏi liên minh năm 1523, Na Uy tiếp tục ở lại với Đan Mạch trong 434 năm cho tới năm 1814. Trong chủ nghĩa lãng mạn quốc gia ở thế kỷ 19, giai đoạn được một số người gọi là "Đêm trường 400 Năm", bởi tất cả hoàng gia, giới học giả và quyền lực hành chính ở các vương quốc được tập trung tại Copenhagen, Đan Mạch. Các yếu tố khác cũng góp phần vào sự suy sụp của Na Uy trong giai đoạn này. Với sự xuất hiện của Đạo Tin Lành năm 1537, Tổng giám mục tại Trondheim bị giải tán, và các nguồn thu của nhà thờ được phân chia cho triều đình ở Copenhagen tại Đan Mạch. Na Uy mất nguồn hành hương ổn định tới thánh tích của St. Olav tại hầm mộ Nidaros, và cùng với đó, là đa phần nguồn liên hệ với đời sống văn hoá và kinh tế với phần còn lại của [[Châu Âu|Châu Âu]]. Ngoài ra, trong thế kỷ 17 Na Uy cũng bị mất một phần diện tích lãnh thổ khi mất các tỉnh Båhuslen, Jemtland, và Herjedalen cho Thuỵ Điển, sau những cuộc chiến tranh giữa Đan Mạch-Na Uy và Thuỵ Điển.
 
Hội đồng hiến pháp[[Pháp|Pháp]] năm 1814, tranh vẽ của Oscar Wergeland.Sau khi Đan Mạch-Na Uy bị [[Anh Quốc|Anh Quốc]] tấn công, họ tham gia vào liên minh với Napoleon, và vào năm 1814 thấy mình đang ở bên thua cuộc trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon và trong tình thế nguy ngập với nạn đói năm 1812. Vị vua Oldenburg của Đan Mạch Na Uy buộc phải nhường Na Uy cho Thuỵ Điển, trong khi các tỉnh cũ của Na Uy là Iceland, Greenland và Quần đảo Faroe vẫn tiếp tục thuộc về triều đình Đan Mạch. Na Uy lợi dụng cơ hội này để tuyên bố độc lập, chấp nhận một hiến pháp[[Pháp|Pháp]] dựa trên mô hình hiến pháp[[Pháp|Pháp]] Mỹ và [[Pháp|Pháp]], và bầu vị thái tử người Đan Mạch Christian Fredrik lên làm vua ngày 17 tháng 5 năm 1814. Tuy nhiên, quân đội Thuỵ Điển đã buộc Na Uy phải gia nhập một liên minh cá nhân với Thuỵ Điển, lập ra triều đại Bernadotte nắm quyền cai trị Na Uy. Theo thoả thuận này, Na Uy giữ hiến pháp[[Pháp|Pháp]] tự do và các định chế độc lập của mình, ngoại trừ quan hệ đối ngoại. Xem thêm Na Uy năm 1814.
 
Giai đoạn này cũng chứng kiến sự nổi lên của phong trào văn hoá Chủ nghĩa quốc gia lãng mạn Na Uy, khi người Na Uy tìm cách định nghĩa và thể hiện một bản sắc quốc gia riêng biệt. Phong trào này liên quan tới mọi nhánh văn hoá, gồm cả văn học (Henrik Wergeland, Bjørnstjerne Bjørnson, Peter Christen Asbjørnsen, Jørgen Moe, Henrik Ibsen), hội hoạ (Hans Gude, Adolph Tidemand), âm nhạc (Edvard Grieg), và thậm chí trong cả chính sách ngôn ngữ, những nỗ lực nhằm xác định một ngôn ngữ viết bản xứ cho Na Uy đã dẫn tới các hình thức ngôn ngữ viết chính thức hiện nay cho Tiếng Na Uy: Bokmål và Nynorsk.
Dòng 42:
Christian Michelsen, một ông trùm ngành tàu bè và là một chính khách, đã làm Thủ tướng Na Uy từ năm 1905 tới năm 1907. Michelsen nổi tiếng nhất về vai trò quan trọng của ông trong cuộc ly khai hoà bình của Na Uy với Thuỵ Điển ngày 7 tháng 7 năm 1905. Sự bất mãn ngày càng tăng của Na Uy về liên minh với Thuỵ Điển hồi cuối thế kỷ 19 cộng với chủ nghĩa quốc gia đã thúc đẩy nhanh sự tan rã của liên minh. Sau một cuộc trưng cầu dân ý xác định sự ưa chuộng của người dân với chế độ quân chủ hơn một nền cộng hoà, chính phủ Na Uy đã đề xuất trao ngôi báu Na Uy cho Hoàng tử Đan Mạch Carl và Nghị viện đã nhất trí bầu ông. Ông lấy tên Haakon VII, theo các vị vua khi Na Uy độc lập thời Trung Cổ. Năm 1898, tất cả mọi nam giới đều được trao quyền bầu cử, sau đó phụ nữ năm 1913.
 
Trong Thế chiến I, Na Uy là một nước trung lập. Na Uy cũng tìm cách tuyên bố trung lập trong Thế chiến II, nhưng đã bị các lực lượng [[Đức|Đức]] xâm lược Na Uy ngày 9 tháng 4 năm 1940. Na Uy không hề chuẩn bị trước cho một cuộc tấn công bất ngờ như vậy của [[Đức|Đức]], nhưng các cuộc kháng cự quân sự vẫn diễn ra trong hai tháng, lâu hơn bất kỳ một quốc gia nào khác bị người [[Đức|Đức]] xâm lược, ngoại trừ Liên bang Xô viết. Trong Chiến dịch Na Uy, Kriegsmarine mất nhiều tàu chiến kể cả chiếc tuần dương hạm Blücher. Những trận chiến Vinjesvingen và Hegra đã trở thành những cứ điểm kháng cự cuối cùng của người Na Uy ở phía nam nước này vào tháng 5, trong khi các lực lượng vũ trang ở phía bắc tung ra các cuộc tấn công vào các lực lượng [[Đức|Đức]] trong Các trận đánh Narvik, cho tới khi họ buộc phải đầu hàng ngày 10 tháng 6 sau khi mất sự hỗ trợ của Đồng Minh đi cùng sự thất trận của nước [[Pháp|Pháp]]. Vua Haakon và chính phủ Na Uy tiếp tục cuộc chiến trong hoàn cảnh tị nạn tại Rotherhithe, Luân Đôn. Vào ngày cuộc xâm lược diễn ra, vị đồng lãnh đạo của Đảng Quốc gia-Xã hội nhỏ Nasjonal Samling — Vidkun Quisling — đã tìm cách lên nắm quyền lực, nhưng đã bị quân chiếm đóng [[Đức|Đức]] gạt ra rìa. Quyền lực thực sự nằm trong tay chính quyền chiếm đóng [[Đức|Đức]], Reichskommissar Josef Terboven. Quisling, với tư cách bộ trưởng tổng thống, sau này đã thành lập một chính phủ liên minh dưới sự quản lý của [[Đức|Đức]]. Các cơ sở tại Na Uy đã chế tạo nước nặng, một nguyên liệu chủ chốt chế tạo vũ khí hạt nhân, và cuối cùng đã bị người [[Đức|Đức]] bỏ lại sau nhiều nỗ lực phá huỷ cơ sở Vemork của người Na Uy, người Anh và người Mỹ. Trong những năm chiếm đóng của Phát xít, người Na Uy đã xây dựng một phong trào kháng chiến mạnh chống lại các lực lượng chiếm đóng [[Đức|Đức]] bằng cả chiến tranh vũ trang và bất tuân dân sự. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hơn với Đồng Minh, là vai trò của hải quân thương mại Na Uy. Ở thời điểm xảy ra cuộc xâm lược, Na Uy có hạm đội tàu biển thương mại đứng hàng thứ tư thế giới (cũng như có tốc độ nhanh nhất và hiệu quả nhất). Công ty tàu biển Na Uy Nortraship đã nằm dưới sự điều khiển của Đồng Minh trong suốt cuộc chiến và tham gia vào mọi chiến dịch từ việc sơ tán Dunkirk tới cuộc đổ bộ vào Normandy.
 
Sau cuộc chiến, những thành viên đảng Dân chủ Xã hội lên nắm quyền và lãnh đạo quốc gia trong hầu hết thời gian cuộc chiến tranh lạnh. Na Uy đã gia nhập NATO năm 1949, và trở thành một đồng minh thân cận của [[Hoa Kỳ|Hoa Kỳ]]. Hai cuộc trưng cầu dân ý nhằm gia nhập Liên minh [[Châu Âu|Châu Âu]] (được gọi là Cộng đồng [[Châu Âu|Châu Âu]] năm 1972) đã thất bại với tỷ số mong manh năm 1972 và 1994. Những nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas lớn đã được khám phá trong thập niên 1960, dẫn tới sự bùng nổ kinh tế sau đó.
===Địa lý và khí hậu===
[[File:Satellite image of Norway in February 2003.jpg|300px|thumb|right|Hình ảnh vệ tinh Na Uy vào mùa đông]]
Na Uy gồm phần phía tây của Scandinavia ở Bắc Âu. Bờ biển lởm chởm, bị chia cắt bởi nhiều vịnh hẹp (fjord) và khoảng 50.000 hòn đảo, trải dài hơn 2.500 km. Na Uy có 2.542 km đường biên giới trên bộ chung với Thuỵ Điển, Phần Lan, và Nga ở phía đông. Từ phía tây tới phía nam, Na Uy giáp với Biển Na Uy, Biển Bắc, và Skagerak. Biển Barents nằm ở các bờ biển phía bắc Na Uy..
 
Với diện tích 385.155 km² (gồm cả Jan Mayen, Svalbard), Na Uy hơi lớn hơn [[Đức|Đức]], nhưng đa phần lãnh thổ là núi non hay vùng đất cao, với sự đa dạng lớn về địa hình tự nhiên do các dòng sông băng thời tiền sử gây nên. Đặc điểm đáng chú ý nhất là các vịnh hẹp: Những rãnh sâu cắt vào đất liền của biển sau sự chấm dứt của Thời kỳ băng hà, vịnh dài nhất là Sognefjorden. Na Uy cũng có nhiều sông băng và thác nước.
 
Phong cảnh đặc trưng phía tây Na Uy với làng (GeirangerGe[[Iran|Iran]]ger)Đất đai chủ yếu gồm đá granite cứng và đá gneiss nhưng, đá acđoa, sa thạc và đá vôi cũng thường thấy, và ở những khu vực có độ cao thấp nhất thường có trầm tích biển. Vì Gulf Stream những cơn gió tây, Na Uy có nhiệt độ ấm và lượng mưa lớn hơn ở các vùng có vĩ độ bắc như vậy, đặc biệt dọc theo bờ biển. Lục địa có bốn mùa riêng biệt, với mùa đông lạnh và ít mưa hơn trong đất liền. Vùgn cực bắc chủ yếu có khí hậu cận Bắc Cực biển, trong khi Svalbard có khí hậu tundra Bắc Cực.
 
Có sự khác biệt theo mùa lớn trong ngày. Tại các vùng phía bắc Vòng Bắc Cực, mặt trời mùa hè có thể không bao giờ xuống dưới đường chân trời, vì thế Na Uy được miêu tả là "Vùng đất của Mặt trời lúc nửa đêm." Trong mùa hè, người dân ở phía nam Vòng Bắc Cực có ánh sáng mặt trời trong vòng gần 20 giờ trong ngày.
 
===Chính trị===
Vương quốc Na Uy là một quốc gia quân chủ lập hiến với một chính phủ theo hệ thống nghị viện. Gia đình Hoàng gia là một nhánh của gia đình hoàng gia Glücksburg, có nguồn gốc từ Schleswig-Holstein ở [[Đức|Đức]]. Vai trò của nhà Vua, Harald V, chỉ mang tính nghi lễ, nhưng ông có ảnh hưởng như một biểu tượng của sự thống nhất quốc gia. Dù hiến pháp[[Pháp|Pháp]] năm 1814 trao cho nhà vua nhiều quyền hành pháp[[Pháp|Pháp]] quan trọng, chúng luôn được Hội đồng nhà nước thực hiện dưới danh nghĩa của nhà vua (Hội đồng hay nội các của nhà vua). Những quyền lực được hiến pháp[[Pháp|Pháp]] trao cho nhà Vua chỉ là trên danh nghĩa, nhưng trong một số trường hợp có thể là rất quan trọng như trường hợp trong Thế chiến II, khi nhà Vua tuyên bố sẽ thoái vị nếu chính phủ chấp nhận đề nghị của đức[[Đức|Đức]]. Hội đồng Nhà nước gồm một Thủ tướng và các bộ trưởng, được chỉ định chính thức bởi đức[[Đức|Đức]] vua. Chế độ đại nghị đã xuất hiện từ năm 1884 và đòi hỏi rằng nội các không bị sự phản đối của nghị viện, và rằng sự chỉ định của nhà vua chỉ là một thủ tục khi rõ ràng có một đa số trong nghị viện thuộc một đảng hay một liên minh. Nhưng trong trường hợp cuộc bầu cử không có sự chênh lệch rõ rệt của một đảng hay một liên minh, lãnh đạo của đảng thích hợp nhất cho việc thành lập một chính phủ sẽ là vị Thủ tướng được nhà Vua chỉ định. Na Uy từng có nhiều lần có chính phủ thiểu số. Nhà Vua họp với chính phủ vào mỗi thứ sáu tại Hoàng cung (Hội đồng Nhà nước), nhưng các quyết định của chính phủ đã được đưa ra trước đó trong những cuộc họp chính phủ, do thủ tướng lãnh đạo, vào mỗi thứ ba và thứ năm. Nhà vua khai mạc nghị viện vào mỗi tháng 9, ông tiếp nhận các đại sứ tới triều đình Na Uy, và ông là Tư lệnh tối cao danh nghĩa của Lực lượng Phòng vệ Na Uy và là Người đứng đầu Nhà thờ Na Uy.
===Kinh tế===
Na Uy sở hữu mức GDP trên đầu người đứng thứ hai và GDP (sức mua tương đương) trên đầu người đứng thứ ba thế giới, và luôn duy trì được vị trí số một thế giới trong bảng Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của UNDP trong năm năm liên tục (2006). Tuy nhiên, Iceland đã hơi vượt hơn Na Uy ở vị trí số một về chất lượng cuộc sống theo Chỉ số Phát triển Con người.
 
Chi phí cuộc sống tại Na Uy cao hơn ở [[Hoa Kỳ|Hoa Kỳ]] khoảng 30% và 25% so với [[Anh Quốc|Anh Quốc]].
 
Kinh tế Na Uy là một ví dụ về nền kinh tế hỗn hợp, với đặc trưng là một sự phối hợp giữa hoạt động thị trường tự do và sự sở hữu lớn của nhà nước. Chính phủ kiểm soát các ngành chủ chốt, như lĩnh vực dầu mỏ (StatoilHydro) chiến lược, sản xuất năng lượng thuỷ điện Statkraft), chế tạo nhôm (Norsk Hydro), ngân hàng lớn nhất Na Uy (DnB NOR) và công ty cung cấp dịch vụ viễn thông (Telenor). Chính phủ kiểm soát 31.6% công ty niêm yết công chúng. Với các công ty chưa niêm yết thậm chí nhà nước còn sở hữu số vốn lớn hơn (chủ yếu là các giấy chứng nhận sở hữu dầu mỏ trực tiếp).
Dòng 133:
==Đến bằng cách nào==
===Nhập cảnh===
Na Uy là một thành viên của Hiệp ước Schengen. Không có kiểm soát biên giới giữa các quốc gia đã ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế - Liên minh [[Châu Âu|Châu Âu]] (ngoại trừ Bulgaria, Síp, Ireland, [[Romania|Romania]] và Vương quốc Anh), Iceland, Liechtenstein, Na Uy và Thụy Sĩ. Tương tự như vậy, thị thực được cấp cho bất kỳ thành viên Schengen có giá trị trong tất cả các nước khác đã ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế. Nhưng hãy cẩn thận: không phải tất cả các thành viên EU đã ký hiệp ước Schengen, và không phải tất cả các thành viên trong khối Schengen là một phần của Liên minh [[Châu Âu|Châu Âu]]. Điều này có nghĩa rằng có thể có vị trí kiểm tra hải quan nhưng không có kiểm tra xuất nhập cảnh (đi du lịch trong khối Schengen nhưng đến / từ một quốc gia không thuộc EU) hoặc bạn có thể phải rõ ràng nhập cư nhưng không hải quan (đi du lịch trong EU nhưng đến / từ một không Schengen nước).
 
Các sân bay ở [[Châu Âu|Châu Âu]] do đó chia thành khu vực "Schengen" và "không Schengen", trong đó trên thực tế có vai trò như "nội địa" và phần "quốc tế" ở nơi khác. Nếu bạn đang bay từ bên ngoài [[Châu Âu|Châu Âu]] thành một nước thuộc khối Schengen và tiếp tục khác, bạn sẽ rõ ràng xuất nhập cảnh và hải quan tại quốc gia đầu tiên và sau đó tiếp tục đến đích của bạn không có kiểm tra thêm. Đi lại giữa các thành viên trong khối Schengen và một nước không thuộc khối Schengen sẽ dẫn đến việc kiểm tra biên giới bình thường. Lưu ý rằng bất kể bạn đang đi du lịch trong khu vực Schengen hay không, nhiều hãng hàng không vẫn sẽ nhấn mạnh khi nhìn thấy thẻ ID của bạn hoặc hộ chiếu.
Dòng 141:
Dân của các nước không phải EU/EFTA thường sẽ cần một hộ chiếu nhập cảnh vào một nước thuộc khối Schengen và hầu hết sẽ cần visa.
 
Chỉ có công dân của các nước không phải EU/EFTA sau đây không cần phải có thị thực nhập cảnh vào khu vực Schengen: Albania *, Andorra, Antigua và Barbuda, [[Argentina|Argentina]], Úc, Bahamas, Barbados, Bosnia và Herzegovina *, [[Brazil|Brazil]], Brunei, [[Canada|Canada]], [[Chile|Chile]], Costa Rica, Croatia, El Salvador, [[Guatemala|Guatemala]], Honduras, Israel, [[Nhật Bản|Nhật Bản]], Macedonia *, [[Malaysia|Malaysia]], Mauritius, [[Mexico|Mexico]], Monaco, Montenegro *, New Zealand, Nicaragua, Panama, Paraguay, Saint Kitts và Nevis, San Marino , Serbia * / **, Seychelles, Singapore, [[Hàn Quốc|Hàn Quốc]], [[Đài Loan|Đài Loan]] *** (Trung Hoa Dân Quốc), [[Hoa Kỳ|Hoa Kỳ]], Uruguay, Vatican City, [[Venezuela|Venezuela]], bổ sung người có chức Quốc gia Anh (ở nước ngoài), Hồng Kông hay Macao. Những khách không thuộc quốc tịch EU/EFTA miễn thị thực có thể không được ở lại quá 90 ngày trong một khoảng thời gian 180 ngày trong khu vực Schengen tổng cộng, nói chung, không thể làm việc trong thời gian nghỉ (mặc dù một số nước trong khối Schengen không cho phép một số người có quốc tịch nhất định làm việc - xem dưới đây). Người ta tính ngày từ khi bạn nhập bất kỳ nước nào trong khu vực Schengen và không thiết lập lại bằng cách rời một nước thuộc khối Schengen cụ thể cho một nước thuộc khối Schengen, hoặc ngược lại. Tuy nhiên, công dân New Zealand có thể ở lại quá 90 ngày nếu họ chỉ thăm các nước thuộc khối Schengen đặc biệt.
 
Khách [[Việt Nam|Việt Nam]] cần phải phỏng vấn cấp visa tại Có 2 nơi bạn tới liên hệ để xin visa Norway: Hà Nội: 56 Lý Thái Tổ, lầu 7, Tel: 04.8262111; Tp. Hồ chí Minh: 21 - 23 Nguyễn thị Minh Khai, Q.1, lầu 5, Tel: 08.8296869. Điều kiện bắt buộc phải có là thư mời qua thăm và sự cam kết bảo lãnh của người có quốc tịch bên Na Uy để đảm bảo khi hết hạn visa bạn phải quay về. Khi nhận hồ sơ của bạn họ sẽ hẹn một ngày nào đó để hỏi bạn vài câu đơn giản, không phỏng vấn. Lệ phí xin visa là 85USD.