Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Jordan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
 
[[File:Treasury Petra.jpg|300px|thumbnail|right|Thành phố cổ [[Petra|Petra]], một trong bảy kỳ quan mới của thế giới.]]
{{quickbar
| image=Treasury_Petra.jpg
Dòng 23:
 
Vương triều Hashemite tại Jordan là một vương triều quân chủ. Nhà vua cũng đồng thời là nguyên thủ quốc gia, và tổng tư lệnh quân đội. Nhà vua có quyền hành [[Pháp|Pháp]], thông qua thủ tướng và hội đồng Bộ trưởng, hay nội các. Nội các, trong khi đó, chịu trách nhiệm trước Hạ nghị viện. Viện này, cùng Thượng nghị viện, hợp thành nhánh lập [[Pháp|Pháp]] của chính phủ. Ngành tư [[Pháp|Pháp]] là một ngành riêng trong chính phủ.
===Lịch sử===
Từ thế kỉ 13 TCN., những dân tộc sử dụng ngôn ngữ Semit đến định cư ở vùng này với sự hình thành các vương quốc được nhắc đến trong Kinh Thánh (Gileed, Ammon, Bashan, Edom và Moab). Vào thế kỉ 10 TCN, lãnh thổ bị sáp nhập vào vương quốc Israel. Khoảng năm 300 TCN, dòng họ Nabataean từ bán đảo Ả Rập đến thành lập vương quốc. Vương quốc này sáp nhập vào Đế quốc La Mã năm 106. Người Ả Rập chiếm vùng đất này vào thế kỉ 7. Sau thời kì Thập tự chinh (1096-1250), vùng lãnh thổ này thuộc quyền kiểm soát của nhà Mamluk (Ai Cập), rồi trở thành một phần của đế quốc Ottoman cho đến khi đế quốc này sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ I.
 
Binh lính Ả Rập trong quân đội Ả Rập nổi dậy chống lại đế quốc Ottoman năm 1916-1918.Người Ả Rập dần dần có nhận thức về tinh thần độc lập dân tộc và mong muốn giành lại đất đai. Họ đã nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Al Sharif Hussein đòi tự do, độc lập. Tháng 6 năm 1916, Al Sharif Hussein tuyên bố toàn bộ đất đai Hedjaz (Ả Rập Xê Út ngày nay) thuộc về người Ả Rập và ông trở thành vua của nước Ả Rập mới này. Quân Ả Rập do Faysal (con trai thứ 3 của Al Sharif Hussein) lãnh đạo đã liên tiếp giành thắng lợi (chiếm được vịnh Aqaba vào tháng 7 năm 1917 và Damas vào tháng 10 năm 1918). Chẳng bao lâu quân Ottoman phải rút khỏi Syrie, Jordan và các quốc gia Ả Rập khác. Với sự giúp đỡ của các sĩ quan Anh, Faysal đã thành lập một chính phủ tự trị ở Damas. Chiến tranh thế giới thứ nhất kêt thúc, Faysal đã xây dựng một nhà nước Ả Rập ở Syrie, bao gồm cả Jordan, Palestine và Liban kéo dài từ Alep (phía bắc) tới Aqaba (giáp Hồng Hải).
 
Tháng 4 năm 1920 Anh, Pháp bí mật ký Hiệp định San Remo, chia cắt Syrie thành nhiều phần dưới ảnh hưởng của Anh, Pháp. Palestine bao gồm cả Jordan đặt dưới sự uỷ trị của Anh, còn Syrie, Liban giao cho Pháp. Faysal buộc phải rút khỏi Damas. Năm 1922, Hội quốc liên quy định biên giới Palestine chỉ đến miền tây sông Jordan, phần phía đông sông Jordan (Transjordan) là một quốc gia riêng biệt. Từ năm 1921, tiểu vương quốc phía Đông sông Jordan là Transjordan trở thành lãnh thổ ủy trị của Anh. Sau Thế chiến II, Anh buộc phải huỷ bỏ chế độ uỷ trị, công nhận Transjordan là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Ngày 22 tháng 3 năm 1946, hai nước ký Hiệp ước hữu nghị và đồng minh. Ngày 25 tháng 5 năm 1946, Jordan được hoàn toàn độc lập, hoàng tử Abdallah Bin Hussein (con trai thứ 2 của Al Sharif Hussein) được suy tôn làm vua hợp pháp, đổi tên nước thành Vương quốc Hashemite Jordan. Ngày 14 tháng 12 năm 1955, Jordan chính thức gia nhập Liên Hiệp Quốc.
 
Quốc vương Abdullah đã tham gia cuộc chiến chống lại Nhà nước Israel vừa mới ra đời. Năm 1949, Quốc vương Abdullah ra lệnh cho quân đội tinh nhuệ của ông (do Anh thành lập năm 1928) sáp nhập lãnh thổ phía Tây sông Jordan bất chấp sự phản đối của các nước Ả Rập khác và đổi tên nước thành Vương quốc Al Jordaniyah al Hashimiyah. Năm 1951, Abdullah bị một người Palestine ám sát. Năm 1952, Quốc vương Hussein lên kế vị cha là Talal bị truất phế vì bệnh tâm thần.
 
Quốc vương Jordan Hussein (trái) bắt tay với Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin (phải) sau khi ký kết Hiệp ước Hòa bình Israel-Jordan, ngày 26 tháng 10 năm 1994, người đứng giữa là Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton.Năm 1956, Quốc vương Hussein ủng hộ Ai Cập trong cuộc Khủng hoảng Kênh đào Suez, nhưng chỉ một năm sau đó, Hussein sa thải những thành phần thân với Tổng thống Gamal Abdel Nasser của Ai cập đang nắm giữ các chức vụ chủ chốt. Để cân bằng với Cộng hòa Ả Rập Thống nhất (Liên minh Ai Cập - Syria), Liên minh Jordan - Iraq được hình thành vào tháng 2 năm 1958 nhưng đã tan rã sau cuộc cách mạng Baghdad vào tháng 7 năm đó. Vì cảm thấy bị đe dọa, Quốc vương kêu gọi sự giúp đỡ của phương Tây.[2]
 
Năm 1967, Jordan liên minh với Ai Cập trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày. Israel đánh chiếm lại vùng bờ Tây sông Jordan và phía Đông Jerusalem, hàng ngàn người tị nạn Palestine phải đi lánh nạn. Sau chiến tranh, Quốc vương Hussein phải đương đầu với quân du kích Palestine mưu toan nắm lấy quyền lực hoàng gia. Năm 1970, quân đội hoàng gia đã can thiệp và trục xuất người Palestine sang Liban và Syria.
 
Năm 1978, tiếp theo sau hiệp định hòa bình Camp David được kí kết giữa Israel và Ai Cập, mối giao hảo giữa Jordan và Palestine cũng trở nên thân thiện hơn. Năm 1984, Jordan lập lại mối quan hệ với Ai Cập. Năm 1988, sau cuộc nổi dậy của người Palestine ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, Quốc vương Hussein đã giải tán Quốc hội Jordan trong đó các đại biểu người Palestine chiếm đến 60 thành viên và tuyên bố cắt đứt mọi ràng buộc hành chính giữa Jordan và vùng lãnh thổ thuộc bờ Tây sông Jordan.
 
Jordan ủng hộ Iraq trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991. Năm 1994, Jordan kí hiệp ước hòa bình với Israel nhưng chính sách cứng rắn của Israel kể từ khi Thủ tướng Benjamin Netanyahu lên nắm quyền (1996) đã gây không ít lo lắng cho Jordan. Năm 1999, Quốc vương Hussein qua đời, con trai là Abd Allah lên nối ngôi và theo đuổi chính sách hoàn toàn độc lập với vua cha.
==Vùng==
{{Regionlist|